Tử vi đẩu số qua truyền thuyết dân gian Trần Đoàn và sách Tử Vi đẩu số toàn thư Gốc gác khoa Tử Vi có tự bao giờ ?
Những thuật ngữ cần biết
Tứ Yếu – Thập dụ – Bát pháp
Chư tinh vấn đáp luận
SAO TỬ VI
SAO THIÊN CƠ
SAO THÁI DƯƠNG
SAO VŨ KHÚC
SAO THIÊN ĐỒNG
SAO LIÊM TRINH
SAO THIÊN PHỦ
SAO THÁI ÂM M
SAO THAM LANG
SAO CỰ MÔN
SAO THIÊN TƯỚNG
SAO THIÊN LƯƠNG
SAO THẤT SÁT
SAO PHÁ QUÂN
SAO VĂN XƯƠNG
SAO VĂN KHÚC
SAO TẢ PHỤ – HỮU BẬT
SAO THIÊN KHÔI – THIÊN VIỆT
SAO LỘC TỒN
SAO THIÊN MÃ
SAO HOÁ LỘC
SAO HOÁ KHOA
SAO HOÁ QUYỀN
SAO HOÁ KỊ
SAO KÌNH DƯƠNG
SAO ĐÀ LA
SAO HỎA TINH
SAO LINH TINH
SAO THIÊN KHÔNG – ĐỊA KIẾP
SAO THIÊN THƯƠNG – THIÊN SỨ
SAO THIÊN HÌNH
SAO THIÊN RIÊU
SAO THIÊN KHỐC –THIÊN HƯ
TUẦN VÀ TRIỆT
CHÙM SAO ĐI THEO LỘC TỒN
ĐẠI TIỂU HAO
CHÒM SAO ĐI THEO THÁI TUẾ
LONG TRÌ – PHƯỢNG CÁC
TAM THAI – BÁT TỌA
HỒNG LOAN – THIÊN HỈ
THIÊN ĐỨC –NGUYỆT ĐỨC
SAO ĐẦU QUÂN
Nhàn cung
Vòng tràng sinh
Thập nhị cung luận Tác dụng của cung Thân là gì ?
Cường cung với nhược cung là gì ?
NHẤT MỆNH CUNG (NAM MỆNH)
NHỊ THIÊN DI CUNG
TAM QUAN LỘC CUNG
TỨ TÀI BẠCH CUNG
NGŨ PHU THÊ CUNG
LỤC PHÚC ĐỨC CUNG
THẤT PHỤ MẪU CUNG
BÁT NÔ BỘC CUNG
CỬU ĐIỀN TRẠCH CUNG
THẬP TẬT ÁCH CUNG
HUYNH ĐỆ TỬ TỨC CUNG
VẬN HẠN
LUẬN VỀ NỮ MỆNH
Cái Lý Ngũ Hành Trong Tử Vi
Y nghĩa của 30 tượng trên thế nào ?
Đoán định cách cục
Hình dáng và tính tình
Đoán về tính tình
Cách Cục
Thập nhị cung chư tinh thất hãm phá cách quyết
Thập đẳng luận
Mệnh vô chính diệu
Đẩu số cốt tủy phụ chú giải
Luận Mệnh và Phê Mệnh
Cuốn sách này được làm thành, đại bộ phận dịch từ tập : / Tử Vi đẩu số toàn thư / của Hi Di Trần Đoàn tiên sinh do La Hồng Tiên biên soạn, do nhà xuất bản Trúc Lâm An Thư Cục ấn hành tại Đài Loan.
Phần bình chú qua tham khảo các sách Tử Vi Xiến Vi của Trương Huy Văn, Chiêm Tinh Thuật của Hoàng Tiểu Nga, Mệnh Lý Huyền Vi của Vô Nhai Cư Sĩ, Trích Thiên Tuỷ của Lưu Bá On, Mệnh Lý Giảng Nghĩa của Vi Thiên Lý, Hám Long Kinh của Dương Quân Tùng, Tạo Hoá Nguyên Thược của Nhiệm Thiết Tiều, Mệnh Lý Chính Tôn của Thần Phong Khảo, Uyên Hải Từ Bình của Từ Tử Bình, Quỷ Cốc Toán Mệnh Thuật …
Phần phú nôm để đối chiếu, chúng tôi trích dẫn từ việc ghi chép công phu của Tử Vi Ao Bích của Việt Viêm Tử và Tử Vi Thực Hành của Dịch Lý Huyền Cơ.
Dẫn
Khổng Tử làm quan ở nước Lỗ khiến cho Lỗ trở nên cường thịnh. Tề quốc sợ Lỗ mạnh sẽ xâm lăng, Tề mới dùng kế ly gián vua Lỗ với đám quần thần tài giỏi bằng cách tuyển 80 mỹ nữ cho ăn mặc lụa gấm, học tập ca vũ, đem biếu vua Lỗ. Quả nhiên, Lỗ công mê đắm nữ sắc ba bốn ngày không ra triều đình nghe chính sự. Khổng tử từ chức bỏ đi sang nước Vệ. Vệ che không dùng. Sang nước Tần, vừa vượt qua Khuông thành, vì diện mạo Khổng Tử giống hệt tên Dương Hồ, một kẻ cướp khét tiếng trong vùng, quan quân và dân chúng vừa trong thấy là hè nhau đuổi đánh, thầy trò Khổng Tử bị một phen thất điên bát đảo. Bỏ Tần qua Tống quốc. Có quan Tư Mã vốn vẫn ghét đạo lý Khổng Khâu, rình lúc thầy Khổng giảng lễ dưới gốc cây cổ thụ, cho người chặt cây đổ để ám hại, may sao Khổng Tử thoát chết nhưng lại phải rời nước Tống đến Trịnh quốc. Thầy đi trước, trò tới sau. Tại nước Trịnh, Khổng Tử đứng chờ nơi cửa Đông. Các trò tìm thầy, hỏi thăm người Trịnh nói : / Cửa Đông có một người, trán cao giống vua Nghiêu, cổ giống cổ ông Cao Dao, lưng giống lưng ông Tử Sản, nhưng dáng dấp lơ láo như con chó mất chủ ( táng gia chi cẩu) /.
Học trò theo chỉ dẫn tìm đến nơi quả đúng là Khổng Khâu, thuật lại lời người Trịnh cho thầy nghe.
Khổng Tử cười mà rằng :
– Hắn nói thể mạo của ta giống các bậc cao hiền thời xưa chẳng có gì đúng, nhưng hắn tả dáng dấp ta như con chó mất chủ thì thất không sai chút nào.Khổng Phu Tử đời sau được tôn làm vạn thế sư biểu, nhưng lúc sinh thời, ông luôn luôn sống trong cảnh táng gia chi cẩu.Tại sao thế?
Khổng Phu Tử giải thích :
Đạo chi tương hành dã dư ? Mệnh dã Đạo chi tương phế dã dư ? Mệnh dã Bất tri mệnh vô dĩ vi quân tử.
Nghĩa là:
Đạo được chuộng do mệnh vậy
Đạo bị vứt bỏ cũng do mệnh vậy
Không biết thiên mệnh thì lấy điều gì chứng tỏ đức quân tử ?Bôn tẩu trải bao nhiêu vinh nhục, mãi tới ngoài năm mươi tuổi đành trở về quê cha đất tổ sao định thi thư và giảng học. Ông bảo học trò :
/ Thầy năm mươi tuổi mới biết thế nào là Thiên mệnh ( Ngô ngũ thập nhi tri thiên mệnh)/.
Câu nói này đã làm cho đạo Khổng vượt xa các đạo khác vì tính chất nhân văn tuyệt đối của nó. Khổng Khâu không muốn mọi người tôn sùng mình như một vị
thánh, ông trước sau chỉ là một con người trong nhân gian cùng chịu an bài của vận mệnh. Cái hay của Khổng đạo là ở chỗ bất dục dị ư nhân vậy. Vào thời kỳ còn trai trẻ cường tráng, ý khí hùng mạnh anh phát, xem việc thiên hạ như ở trong tay mình muốn là được. Nếu có ai nói về hai chữ thiên mệnh, người tuổi trẻ sẽ cười ngất mà cho là hão huyền. Khi tuổi về chiều, từng nếm nhiều cay đắng, lăn lóc đường đời, ý khí tiêu mòn, sức vóc suy yếu. Dù công thành danh toại hay công không thành danh không toại, bấy giờ chẳng ai khỏi không thở dài mà tự nhủ : / Cuộc đời là số mệnh ! /
Có lưu lạc mới biết mùi trần thế
Còn trần ai không tỏ mặt công hầu Ngất ngưởng thay con tạo khéo cơ cầu Muốn đại thụ hãy dìm cho lúng túng Thân hệ bang gia chung hữu dụng Thiên sinh hào kiệt bất ưng hư Hãy bền lòng chớ chút oán vưu Thời chi hĩ ngư Long biến hoá Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả Cũng đừng đem hình dịch cầu chi Hơn nhau cũng một chữ thì.
( Thơ Cao Bá Quát)
Đó là thảm kịch của nhân gian nhưng chính thảm kịch đó đưa nhân loại thăng hoa. Huyền thoại Hy Lạp kể :
Vua xứ Lydie là Croisos rất giàu, cai trị một quốc gia rất mạnh, vàng bạc châu báu trên thế giới đều vào tay nhà vua, triều thần nhiều người tài giỏi. Nhà hiền triết Solon vào yết kiến Croisos, nhà vua cho trần thiết huy hoàng để đón tiếp. Bước vào lâu đài, Solon chẳng mảy may lưu tâm đến sự tráng lệ. Vua Croisos bực lắm mới hỏi :
/Theo ngài, trên đời này ai là người sung sướng nhất ? /
Y vua muốn Solon sẽ nói Croisos là người sung sướng nhất. Nhưng nhà hiền triết lại kể số mệnh vua Tellos đã bị kẻ thù đâm trúng ngực chết giữa lúc Tellos và tổ quốc của ông sống trong tuyệt đỉnh vinh quang. Rồi Solon kết luận :
“ Hàng ngàn ngày trong suốt cuộc đời người không ngày nào tuyệt đối giống ngày nào. Số mệnh trộn lẫn sướng với khổ, may với rủi cho nên không ai có thể tự cho mình hoặc bảo người khác là sướng hay khổ trước khi sinh mạng hoàn tất “.
Croisos nghe Solon nói, lòng không mấy vui. Để được yên chí hơn, Croisos hôm sau đến đền thờ Apollon mà xin thần thánh dạy bảo cách sống sung sướng mãn đời. Thần thánh dạy :
/ Hỡi Croisos, con sẽ là người sung sướng mãi mãi /.
Yên lòng với lời thánh nói, Croisos tự nhủ :
/ Ta không bao giờ tính sai chuyện gì, ta đâu phải là thằng điên hay chỉ biết mơ mộng hão, ta nhìn người cũng như nhìn ta một cách sáng suốt, ta đánh trận thắng luôn luôn, ta cai trị khéo tuyệt bực. Thần thánh cũng bảo hạnh phúc của ta không bao giờ mất /.
Nhưng Croisos lạc quan chẳng được bao lâu thì vận đen nối đuôi nhau ập tới, thua trận Perse, thủ đô Sardes bị vây hãm vợ con vua Croisos bị bắt đi, lâu đài cung điện bị thiêu rụi. Croisos nhớ lại lời của Solon, khóc lớn mà gọi tên nhà hiền triết ba lần.
Ta có thể không tin tướng mệnh học là môn học mang ý định tìm biết trước vận mệnh, tuy nhiên. Không phải vì thế mà ta không bị những sự việc thuộc về vận mạng quấy nhiễu khiến ta bại hoặc bất giải. Huyền bí nhưng lại trong thấy rõ mồn một ( mustérieux mais objectif) .Vậy có thể khẳng định rằng vấn đề vận mạng học là nghi vấn nhưng vấn đề vận mạng thì hẳn hoi là sự thật không hồ nghi gì nữa. Thế gian chỉ khả dĩ dùng sự thật để phủ định lý luận chứ không thể đem lý luận để phủ định sự thật. Khoa học phát đạt đã đánh cho lung lay đến tận gốc cái quan niệm Thần của tôn giáo. Còn quan niệm vận mệnh từ trước tới giờ chưa hề bị sự tấn bộ của trí tuệ làm nó phải biến hoá. Quan niệm vận mạng đã dùng sự thật của nó cho người trí tuệ cũng như cho kẻ vô trí thừa nhận lẽ thịnh suy cát hung ở đời. Lẽ ấy khoa học nguyên tử năng, khoa học không gian chưa chứng minh giải thích được.Giáo lý tôn giáo chứng minh giải thích vận mạng bằng sự an bài do bàn tay Thượng Đế,bằng quan hệ tiền kiếp tức là tuyệt đối tuỳ thuộc vào thần quyền thì lại càng không thể chấp nhận vì nó chẳng khác gì bọn phù thuỷ đem ma quỷ lợi dụng vấn đề vận mạng. Thiên mệnh, chữ thiên đây không có nghĩa là một ông mang hình dung thiện ác đem hoạ đem phúc cho ai, thiên đây chỉ một hoàn cảnh bẩm thụ lúc vật được tạo thành, không hề có một ý bất công nào hết. Vận mạng con người phải hiểu theo quan niệm / Thiên bất tư phúc địa bất tư tải /, trời không che riêng ai, đất không chở riêng ai.Người xưa đi tìm biết vận mạng trong cái nguyên lý vũ trụ biến động bất cư gọi là dịch lý. Hoàn cảnh tự nhiên chịu theo qui định của định luật dịch đó, con người cũng thế. Thế nào là biến động bất cư ? Như kinh Dịch viết :
/ Càn đạo biến hoá, các chính tính mệnh… Ví đạo dã lũ thiên, biến hoá bất cư, chu lưu lục hư, thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch bất khả vi điển yếu duy biến sở thích /.
Nghĩa là:
/ Đạo trời biến hoá, mọi vật theo biến hoá đó mà xoay đổi tính mệnh … Đạo chuyển rời luôn, biến hoá chứ không ở một chỗ, chan hoà khắp chốn, trên dưới vô thường, cương nhu dịch vị, không cái gì nhất định, chỉ có biến hoá mới thật là đạo trời /.
Do lý trên nên mệnh phải đi đôi với vận, nếu chỉ nói mệnh không thôi nghe như là nhất thành bất biến.
Giáo sư Tiền Mục giảng :
/ Mệnh là tính cách của người. Vận là sự tao ngộ giữa người với hoàn cảnh. Tính cách thì định trước nhưng tao ngộ thì tuỳ thời thế mà biến /.
Thế cục vĩnh viễn biến động, vận mệnh con người cũng biến động không lúc nào ngừng. Sự tao ngộ làm cho cuộc sống chu chuyển vạn lối.
Tục ngữ Trung Quốc có câu :
/ Tam thập niên tiền thuỷ lưu đông, tam thập niên hậu thủylưu tây ( ba mươi năm trước nước chảy về phía Đông, ba mươi năm sau nước chảy về phía Tây) “ để tả cái biến của sự vật cuộc đời biển dâu, dâu biển. Thế vận thịnh suy trị loạn, đời người hung cát theo nhau.Bên cạnh cái lý thịnh suy hung cát còn có quy luật bĩ cực thái lai và biện chứng vật cực tắc phản đem đến cho cõi nhân sinh ý nghĩa và giá trị để đời sống khỏi tẻ nhạt vô vị. Bởi có bĩ cực thái lai nên gặp bĩ chẳng đáng ta phải lo cứ tiếp tục phấn đấu, gặp thái chẳng đáng cho ta mừng đến độ quên phấn đấu. Đằng sau thái là bĩ, đằng sau bĩ là thái. Thái bĩ là hai mặt trước sau của mệnh vận.Bĩ cực tắc thái. Thái cực tắc bĩ. Đấy là chân tướng của mệnh vận. Hoạ phúc theo vận mệnh học được tính theo cái lý nhân quả, chứ không thể nói theo ông On Như Hầu, Nguyễn Gia Thiều trong mấy câu thơ cung oán :
Quyền hoạ phúc trời tranh mất cả
Chút tiện nghi chẳng giả phần ai
Cái quay búng sẵn trên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.
Có nhân tất là có quả. Có quả tất phải có nhân. Reo gió gặt bão. Ra ân được phúc. Xét ở hiện tại khả dĩ thấy được phần nào quá khứ và suy ra phần nào tương lai. Đó là nhân quả thông thường. Ngoài nhân quả thông thường còn có nhân quả trên một tầng cao hơn gọi là nhân quả thuộc triết lý hệ của số mệnh, nhân quả cách xa nhau và ảnh hưởng gián tiếp.Lão Tử nói :
/ Hoạ hề phúc sở ý, phúc hề hoạ sở phục /.
Phúc chứa chất mềm hoạ, trong hoạ tiềm ẩn phúc. Phúc hay hoạ không đến một cách vô cớ.Nó đến theo luật nhân quả như sách Tả Truyện viết : / Hoạ phúc vô môn duy nhân sở chiêu / (Hoạ phúc do người gọi tới). Con người ta ai chẳng mong được phúc vậy thì làm sao lại có chuyện chiêu hoạ ? Lão Tử trả lời : / Hoạ mạc đại ư bất tri túc, mạc đại ư dục đắc / nghĩa là hoạ ở chỗ không biết thế nào là đủ, lòng dục, lửa dục cứ lớn mãi. Đó là thường lý. Thường thức và học thức không giống nhau, học lý và thường lý cũng có nhiều chênh lệch.Thường thức, thường lý tìm thấy ở thường tình thường sự, nhưng học thức và học lý chỉ tìm thấy qua học thuật chuyên môn. Thường thức thường lý mang tác dụng chỉ đạo nhân sinh. Tri thức về vận mệnh có nhiều người lấy thường lý của nhân sự để giải thích bằng thuyết tự ngã (do mình) cho sức người là trung tâm. Cực điểm của thuyết này là siêu nhân (super – homme). Tây phương có khá nhiều thuyết siêu nhân sau khi chủ nghĩa nhân văn đã thắng thần quyền tăng lữ. Mệnh vận học Đông phương không cho sức người là trung tâm, không đem tự ngã để giải thích. Mệnh lý là một học vấn chuyên môn nghiên cứu về vận mệnh con người căn cứ vào thời gian sinh ra đời và hình dáng (tướng) để phán đoán. Trong phán đoán này, sức người với tự ngã chỉ đóng góp một phần nhỏ.
Gánh cực đem đổ lên non
Cong lưng mà chạy cực còn theo sau.
Sức người và tự ngã nếu không có sự trợ giúp của may mắn tất sẽ giảm hẳn thành quả. Ngay các nhà khoa học thông thái Tây phương trên cửa miệng vẫn thường thốt ra câu : / Pauvres gens, ils n’ont vraiment pas de chance /. Đã có nhiều khoa học gia đặt vấn đề may rủi có thể nhìn thấy hay không ? Họ đều công nhận may rủi ở ngoài sức người và tự ngã, họ đưa ra môn học / calcul de probabilité / (toán lượng định).Mệnh vận học Đông phương cũng thế, nó hẳn hoi là một con toán, có khác chăng chỉ là khác vì nó đặt bài toán đó trên một luật tắc cao hơn. Không thể bảo mệnh vận học là huyền bí. Danh từ này chỉ có thể gọi các thuật phù thuỷ ếm bùa, đồng rí, tabou, hội kín tôn giáo. Điều đáng tiếc là môn mệnh vận học tự nó có những khuyết điểm :
Nhưng mệnh lý chẳng những nó luôn luôn không giống thường lý mà còn luôn luôn sung đột với thường lý nữa. Nếu muốn nói cho suôi thì phải đem cả một hệ thống học vấn chuyên môn ra giảng. Điểm căn bản cho sự xung đột giữa mệnh lý và thường lý là thường lý dựa trên sự thật hiện hữu để suy đoán vị lai mà mệnh lý thì dựa trên mệnh cách vô hình để phán đoán những biến hoá đã qua và sắp tới. Tỉ dụ thường lý bảo anh A thân thể cường tráng khoẻ mạnh thì chắc hẳn anh sống lâu. Mệnh lý sau khi xem xét ngày tháng năm sinh hoặc hình dáng nói ngược hẳn lại thường lý rằng anh A sẽ chết trong vòng vài ba năm nữa.
Tỉ dụ : thường lý bảo / hữu chí cánh thành/. Mệnh lý nói khác / mưu sự tại nhân thành sự tại thiên/. Theo mệnh lý giải thích thì đời con người ta từ quan hệ cha mẹ anh em, vợ con, bè bạn cho đến sống lâu, chết yểu, sự nghiệp thành bại, gặp hoạ gặp phúc đã được định đoạt bởi số vận tới 7 phần 10, chỉ còn lại 3 phần cho hữu chí giả.Người xưa dạy rằng : / Nhân sinh bất như ý sự thường bát cửu/. ( Trong đời những điều bất như ý có tám chín). Nói thế tức là thừa nhận biến chuyển của đời sống đi ra ngoài nhân lực và tự ngã quá bán phần quyết định.